image banner
Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về việc làm ở Việt Nam

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Mạnh Khương nhấn mạnh, hoàn thiện quản lý nhà nước về việc làm là một định hướng chiến lược, quyết định năng lực phục hồi, thích ứng và phát triển bền vững của quốc gia.

anh tin bai

Báo Dân trí trân trọng giới thiệu bài viết "Quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước về việc làm ở nước ta hiện nay" của Thứ trưởng. 

anh tin bai
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Mạnh Khương (Ảnh: Sơn Nguyễn).

Ở nước ta trong nhiều năm qua, việc làm luôn được Đảng và Nhà nước xác định là một trong những nội dung trọng tâm trong chiến lược phát triển con người và ổn định xã hội.

Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, với những yêu cầu cao hơn về chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc thị trường lao động, hội nhập sâu rộng và chuyển đổi số toàn diện thì hoàn thiện quản lý nhà nước về việc làm không chỉ là một nhiệm vụ kỹ thuật, mà là một định hướng chiến lược có tính quyết định đối với năng lực phục hồi, thích ứng và phát triển bền vững của quốc gia.

Thực trạng quản lý nhà nước về việc làm

Việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội cốt lõi của mọi quốc gia, không chỉ liên quan đến thu nhập, đời sống người lao động mà còn phản ánh chất lượng tăng trưởng, mức độ phát triển toàn diện và khả năng quản trị hiệu quả của Nhà nước.

Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, việc làm luôn được Đảng và Nhà nước xác định là một trong những nội dung trọng tâm trong chiến lược phát triển con người và ổn định xã hội.

anh tin bai
Việc làm luôn được Đảng và Nhà nước xác định là một trong những nội dung trọng tâm trong chiến lược phát triển con người và ổn định xã hội (Ảnh minh họa: Gia Đoàn).

Luật Việc làm được Quốc hội thông qua năm 2013 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 đã tạo nền tảng pháp lý tương đối toàn diện cho công tác quản lý nhà nước về việc làm. Luật đã quy định khá cụ thể về việc làm, tạo việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, thông tin thị trường lao động và vai trò của nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong tạo việc làm. Bộ máy quản lý nhà nước về việc làm từng bước được kiện toàn; đội ngũ cán bộ, công chức được bổ sung, tăng cường; hệ thống dữ liệu và dịch vụ được chú trọng.

Tuy nhiên bên cạnh đó, quản lý nhà nước về việc làm còn những hạn chế, bất cập.

Khung thể chế, chính sách và pháp luật về việc làm còn một số bất cập. Qua một thập niên triển khai, các quy định của Luật Việc làm và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành đã bộc lộ những hạn chế nhất định trong việc phản ứng với các biến động nhanh của thị trường lao động và các yêu cầu mới của quá trình phát triển.

Các quy định của Luật chưa có sự liên kết chặt chẽ với các luật liên quan như Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Doanh nghiệp, Luật Người cao tuổi, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Người khuyết tật… Điều này gây ra không ít khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện.

Việc tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về việc làm hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Sự thiếu liên thông giữa các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương dẫn đến tình trạng trùng lặp hoặc bỏ sót thông tin, thiếu đồng bộ trong cơ sở dữ liệu. Điều này gây cản trở cho quá trình tổng hợp, giám sát và điều chỉnh chính sách việc làm một cách hiệu quả.

anh tin bai
 

Việc Bộ Nội vụ được giao thống nhất quản lý nhà nước trong các lĩnh vực lao động, việc làm, tiền lương và an sinh xã hội là một quyết sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu tổ chức lại thể chế hành chính nhà nước theo hướng "Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả" và hiện đại hóa toàn diện.

Đồng thời, đây là cơ hội lịch sử để xây dựng một hệ thống quản lý việc làm tích hợp, có khả năng phản ứng nhanh với các biến động thị trường, chủ động trong hoạch định chiến lược và bảo đảm quyền tiếp cận việc làm bền vững cho người lao động. Tuy nhiên, cần tiếp tục sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về việc làm từ trung ương đến địa phương.

Cơ sở dữ liệu về người lao động và thông tin thị trường lao động hiện nay vẫn chưa đồng bộ, thống nhất. Dữ liệu này đang được thu thập và quản lý bởi nhiều cơ quan khác nhau như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (trước khi hợp nhất), Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tổng cục Thống kê và các trung tâm dịch vụ việc làm địa phương. Điều này dẫn đến tình trạng thông tin, dữ liệu về người lao động, thị trường lao động manh mún, tản mát, thiếu khả năng chia sẻ và phân tích dữ liệu lớn.

Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về việc làm còn hạn chế cả về chuyên môn, kỹ năng phân tích chính sách và khả năng ứng dụng công nghệ trong quản trị hiện đại. Một số công chức chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế lao động, thị trường lao động, quản lý dữ liệu hoặc chưa được cập nhật kiến thức mới về việc làm trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm thiếu sự phối hợp, kết nối, chia sẻ dữ liệu và chưa thể hiện nguyên tắc thống nhất về hoạt động nghiệp vụ. Nhiều trung tâm chưa được đầu tư đúng mức, thiếu nhân lực chuyên môn cao, hạ tầng công nghệ lạc hậu, hoạt động giới thiệu việc làm còn theo phương thức truyền thống, thiếu linh hoạt và thiếu liên kết với doanh nghiệp. Tỷ lệ người được giới thiệu việc làm thành công qua các trung tâm dịch vụ việc làm còn chưa đáp ứng được kỳ vọng.

Bối cảnh, yêu cầu mới

Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết về việc hoàn thiện toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa quản lý nhà nước trong lĩnh vực việc làm, bao gồm cả thể chế, cơ chế thực thi và năng lực quản trị.

anh tin bai
 

Thứ nhất, bối cảnh phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam đang đặt ra những thách thức to lớn đối với mục tiêu tạo việc làm bền vững. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sâu sắc từ mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và tài nguyên sang mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo, năng suất và công nghệ cao. Quá trình này đồng thời đòi hỏi chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động khu vực phi chính thức, tăng cường lao động kỹ năng cao, gắn kết giáo dục nghề nghiệp với nhu cầu thị trường.

Trong khi đó, nhiều ngành nghề truyền thống đang thu hẹp quy mô sử dụng lao động, gây ra tình trạng mất việc làm, dư thừa lao động ở những vùng chuyển đổi chậm. Chuyển đổi số, tự động hóa và công nghệ trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu việc làm, khiến hàng triệu lao động cần được đào tạo lại hoặc chuyển đổi nghề.

Thứ hai, những biến động toàn cầu như đại dịch Covid-19, xung đột địa chính trị, biến đổi khí hậu, cũng như xu hướng già hóa dân số và đô thị hóa nhanh đang làm phức tạp hóa vấn đề việc làm.

Đại dịch Covid-19 để lại hậu quả nghiêm trọng cho thị trường lao động Việt Nam, với tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm gia tăng, đặc biệt ở nhóm lao động không có hợp đồng, lao động di cư và phụ nữ. Biến đổi khí hậu, thiên tai ngày càng gia tăng cường độ và tần suất cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế ở các khu vực nông nghiệp, nông thôn và ven biển, dẫn đến mất việc làm hoặc chuyển đổi cơ cấu lao động không mong muốn.

anh tin bai
 

Trong bối cảnh già hóa dân số, một mặt Việt Nam phải đối mặt với thách thức thiếu hụt lao động trẻ ở một số vùng, mặt khác lại phải giải quyết bài toán bảo đảm việc làm cho người cao tuổi có nhu cầu tiếp tục làm việc. Những biến động này yêu cầu Nhà nước phải có công cụ quản lý linh hoạt, dựa trên dữ liệu, có tính dự báo và khả năng phản ứng chính sách nhanh chóng.

Thứ ba, các cam kết quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP), đặt ra yêu cầu phải nâng cao tiêu chuẩn lao động, bảo đảm quyền làm việc, chống phân biệt đối xử, thúc đẩy việc làm bền vững. Điều này không chỉ liên quan đến chất lượng thể chế việc làm, mà còn đặt áp lực lên năng lực quản lý nhà nước trong giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm, bảo đảm môi trường làm việc an toàn, bình đẳng và công bằng cho người lao động, phù hợp với các công ước lao động quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn.

Đồng thời, thị trường lao động khu vực ASEAN đang từng bước hình thành cơ chế lao động di cư nội khối, yêu cầu năng lực quản lý xuyên biên giới về việc làm, bảo vệ quyền lợi lao động và quản trị dòng chảy lao động quốc tế.

Thứ tư, cần khắc phục kịp thời và có hiệu quả những điểm nghẽn của hệ thống quản lý nhà nước về việc làm và xử lý triệt để những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về việc làm.

Những hạn chế nổi bật hiện nay, bao gồm hệ thống thể chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, linh hoạt, chưa theo kịp với biến động của thị trường lao động; bộ máy tổ chức thực thi còn phân tán, chồng chéo, thiếu cơ chế điều phối hiệu quả giữa các bộ, ngành và địa phương; cơ sở dữ liệu lao động chưa được tích hợp thống nhất, thiếu công cụ phân tích, dự báo phục vụ quản lý.

Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế về năng lực chuyên môn, đặc biệt là trong ứng dụng công nghệ thông tin và khai thác dữ liệu lớn để phục vụ hoạch định và điều hành chính sách.

anh tin bai
 

Chính những điểm nghẽn này khiến chính sách, pháp luật về việc làm chưa đi vào cuộc sống một cách hiệu quả, chưa đáp ứng kỳ vọng của người lao động, doanh nghiệp và toàn xã hội.

Trước bối cảnh đó, yêu cầu mới đặt ra hiện nay là hoàn thiện quản lý nhà nước về việc làm theo hướng hiện đại, chủ động, số hóa và tích hợp, có khả năng phản ứng chính sách nhanh, chính xác và toàn diện. Xây dựng một hệ thống thể chế có khả năng dẫn dắt thị trường lao động, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, linh hoạt và thích ứng với biến động.

Đồng thời, quản lý nhà nước về việc làm phải bảo đảm sự phối hợp liên ngành hiệu quả, có nền tảng dữ liệu mạnh và đội ngũ thực thi có năng lực chuyên sâu. Đây là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế tri thức, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và bảo đảm quyền làm việc cho mọi người dân.

Việc làm là trung tâm của chính sách phát triển bền vững, bao trùm và nhân văn

Trong bối cảnh thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng dưới tác động của chuyển đổi số, hội nhập quốc tế và yêu cầu phát triển bền vững, việc hoàn thiện quản lý nhà nước về việc làm cần được định hình trên cơ sở các quan điểm phát triển dài hạn, hiện đại, phù hợp với xu thế toàn cầu và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

Hoàn thiện thể chế về việc làm trên cơ sở thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, có trình độ tay nghề và kiến thức xã hội. Cần bảo đảm sự liên thông giữa các hình thức, cấp bậc và lĩnh vực giáo dục - đào tạo, gắn với mục tiêu phát triển bền vững; xây dựng và phát triển thị trường lao động có tính liên kết, thích ứng và hội nhập quốc tế.

anh tin bai
 

Đồng thời, cần giải quyết kịp thời, linh hoạt và hiệu quả các chế độ, chính sách đối với người lao động và doanh nghiệp; nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nước, cũng như huy động nguồn lực và sức sáng tạo của toàn xã hội trên cơ sở phát huy các thế mạnh sẵn có.

Quản lý nhà nước về việc làm không thể chỉ giới hạn trong các biện pháp hành chính, kỹ thuật hay các chương trình ngắn hạn. Việc làm phải được nhìn nhận như một cấu phần trung tâm trong chiến lược phát triển quốc gia - nơi hội tụ giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh của lực lượng lao động.

Chính vì vậy, quản lý nhà nước về việc làm cần chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang tư duy phát triển - nghĩa là định hướng chính sách không chỉ để điều tiết thị trường lao động, mà phải tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận cơ hội việc làm bền vững, có thu nhập ổn định và điều kiện làm việc an toàn, phù hợp với quyền con người và các tiêu chuẩn lao động quốc tế.

Việc làm cần được xem như một yếu tố then chốt trong việc bảo đảm an sinh xã hội, phòng ngừa nghèo đói, giảm bất bình đẳng và duy trì ổn định chính trị - xã hội. Trong định hướng phát triển bao trùm, các nhóm yếu thế như người lao động phi chính thức, lao động nữ, người khuyết tật, lao động di cư… cần được đặc biệt quan tâm với các cơ chế hỗ trợ linh hoạt và phù hợp.

Trong điều kiện kinh tế - xã hội biến động nhanh, công nghệ thay đổi liên tục và rủi ro ngày càng khó lường, quản lý nhà nước về việc làm cần được định hướng theo mô hình thể chế thích ứng (adaptive governance). Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật, chính sách về việc làm phải được cập nhật thường xuyên, có khả năng phản ứng nhanh với các khủng hoảng, biến cố và sự thay đổi trong hành vi của doanh nghiệp và người lao động.

anh tin bai
 

Nhà nước cần chuyển từ vai trò "quản lý" sang "phục vụ" người dân và tổ chức, từ "can thiệp trực tiếp" sang "dẫn dắt phát triển" thông qua khung pháp lý rõ ràng, cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả, hệ thống dữ liệu lớn (big data) và nền tảng số hóa chính sách. Từ đó nâng cao chất lượng dự báo, phát hiện sớm rủi ro và điều chỉnh kịp thời các chính sách về tạo việc làm, hỗ trợ chuyển đổi nghề và tái cấu trúc lực lượng lao động.

Quản lý nhà nước về việc làm không thể tách rời khỏi quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Trong thực tiễn hiện nay, khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động còn lớn, dẫn đến tình trạng dư thừa lao động có trình độ không phù hợp, trong khi nhiều lĩnh vực sản xuất, dịch vụ lại thiếu hụt lao động kỹ năng.

Vì vậy, một trong những định hướng quan trọng là phải xây dựng và triển khai các chính sách tích hợp giữa tạo việc làm với giáo dục nghề nghiệp, đào tạo kỹ năng và chiến lược phát triển nhân lực trình độ cao, có khả năng thích ứng với môi trường công nghệ thay đổi.

Cơ quan quản lý nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc kết nối "ba nhà": nhà nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, hình thành hệ sinh thái phát triển việc làm bền vững, lấy người lao động làm trung tâm, đồng thời đáp ứng hiệu quả nhu cầu của doanh nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế.

Quản lý việc làm trong thời đại số cần được thực hiện trên nền tảng dữ liệu số hóa, tích hợp, minh bạch và có khả năng phân tích dự báo. Đây là điều kiện tiên quyết để chuyển từ quản lý bị động sang quản lý chủ động và dẫn dắt thị trường. Do đó, cần định hướng phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động - việc làm, bảo đảm kết nối đa ngành, liên thông giữa trung ương - địa phương và cập nhật theo thời gian thực.

anh tin bai
 

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo, học máy (machine learning), phân tích dữ liệu lớn vào công tác dự báo xu hướng việc làm, phân tích kỹ năng mới nổi, đánh giá cung - cầu lao động theo vùng và ngành nghề sẽ giúp Nhà nước đưa ra các quyết định chính sách chính xác hơn, đồng thời nâng cao khả năng phản ứng trước các rủi ro thị trường và xu thế toàn cầu.

Hoàn thiện quản lý nhà nước về việc làm đòi hỏi sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành ở trung ương và các cơ quan, chính quyền địa phương. Cần thiết lập cơ chế điều phối liên ngành rõ ràng, xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền, nguồn lực của từng chủ thể trong quản lý và triển khai chính sách việc làm.

Đồng thời, cần tăng cường phân cấp cho địa phương theo nguyên tắc "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm" trong việc tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ việc làm, trên cơ sở tăng cường năng lực địa phương và xây dựng cơ chế giám sát minh bạch, hiệu quả.

Nhà nước cần đẩy mạnh hợp tác với khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội và các hiệp hội nghề nghiệp trong cung cấp dịch vụ việc làm, đào tạo lại kỹ năng và kết nối thị trường lao động. Đây là yếu tố bảo đảm cho sự vận hành linh hoạt, bền vững và hiệu quả của hệ thống quản lý việc làm hiện đại.

Kiến nghị với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
Thứ nhất, đề nghị Chính phủ chỉ đạo ban hành Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ về hoàn thiện quản lý nhà nước về việc làm trong kỷ nguyên mới, như một văn bản chiến lược có tính định hướng dài hạn, nhằm tạo cơ sở chính trị - pháp lý cho Bộ Nội vụ và các địa phương triển khai cải cách đồng bộ.

Thứ hai, đề nghị Chính phủ phân bổ nguồn ngân sách trung hạn cho xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, hiện đại hóa hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, đào tạo lại kỹ năng và nâng cao năng lực thực thi của cán bộ cơ sở. Việc này cần được lồng ghép vào các chương trình mục tiêu quốc gia, kế hoạch đầu tư công trung hạn và chiến lược tài chính công bền vững.

anh tin bai
Lao động ra về sau buổi phỏng vấn tại cổng A2 - Funning, KCN Quế Võ, chiều 17/2 (Ảnh: Sơn Nguyễn).

Thứ ba, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các địa phương tích cực triển khai chương trình chuyển đổi số trong dịch vụ việc làm, xây dựng mô hình trung tâm dịch vụ việc làm hiện đại, có khả năng kết nối vùng và cung cấp dịch vụ nghề nghiệp chất lượng cao, thân thiện, hiệu quả, hướng tới người dân và doanh nghiệp.

Thứ tư, đề nghị Chính phủ khuyến khích và ban hành cơ chế pháp lý rõ ràng cho hợp tác công - tư trong lĩnh vực việc làm, bao gồm cơ chế chia sẻ dữ liệu và chính sách hỗ trợ cho các tổ chức ngoài nhà nước có đóng góp tích cực vào phát triển thị trường lao động.

Thứ năm, đề nghị Chính phủ đưa nội dung "việc làm bền vững và quản lý thị trường lao động hiện đại" vào nhóm chỉ tiêu bắt buộc trong hệ thống đánh giá kết quả phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia, cấp tỉnh, gắn với các chỉ số như tỷ lệ việc làm có bảo hiểm xã hội, tỷ lệ lao động kỹ năng cao, chỉ số hài lòng của người dân đối với dịch vụ việc làm công...

                                                                                                                                           Nguồn: Dân trí







Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập